Catheter tĩnh mạch ngoại vi là gì? Các công bố khoa học về Catheter tĩnh mạch ngoại vi

Catheter tĩnh mạch ngoại vi là một ống mềm được đưa vào tĩnh mạch ngoại vi (các tĩnh mạch ở ngoài trung tâm của cơ thể) thông qua da. Catheter này được sử dụng ...

Catheter tĩnh mạch ngoại vi là một ống mềm được đưa vào tĩnh mạch ngoại vi (các tĩnh mạch ở ngoài trung tâm của cơ thể) thông qua da. Catheter này được sử dụng để cung cấp thuốc, chất dịch hoặc chất dinh dưỡng trực tiếp vào hệ tuần hoàn của bệnh nhân. Cách thức đặt catheter tĩnh mạch ngoại vi tùy thuộc vào vị trí và mục đích điều trị, có thể là thông qua dây chằng hoặc sau khi có một kiểm soát ngăn cản tạm thời trong tĩnh mạch để giữ dòng chảy và duy trì catheter.
Catheter tĩnh mạch ngoại vi thường được dùng trong các trường hợp sau:

1. Cung cấp chất dịch: Catheter tĩnh mạch ngoại vi được sử dụng để cung cấp chất dịch như dung dịch muối sinh lý, nước tĩnh mạch, glucose hoặc các dung dịch chứa chất dinh dưỡng cho bệnh nhân. Việc cung cấp chất dịch này giúp duy trì lượng nước và điện giải cân bằng trong cơ thể, đáp ứng nhu cầu cung cấp chất dinh dưỡng, và tái tạo chất lỏng đã mất do bệnh.

2. Đưa thuốc trực tiếp vào tĩnh mạch: Catheter tĩnh mạch ngoại vi cũng được sử dụng để đưa thuốc trực tiếp vào hệ tuần hoàn của bệnh nhân. Điều này đặc biệt hữu ích trong việc cung cấp thuốc kháng sinh, hóa trị, thuốc giảm đau hoặc các loại thuốc khác mà cần phải có tác động nhanh chóng lên cơ thể.

3. Theo dõi tình trạng cơ thể: Catheter tĩnh mạch ngoại vi cũng có thể được sử dụng để theo dõi tình trạng cơ thể của bệnh nhân. Nó có thể được kết nối với các thiết bị theo dõi như máy đo huyết áp, máy theo dõi nhịp tim, máy đo nồng độ oxy trong máu (SpO2), và máy theo dõi nhịp tho. Điều này giúp bác sĩ hoặc nhân viên y tế theo dõi và đánh giá hiệu quả của liệu pháp và tình trạng sức khỏe tổng quát của bệnh nhân.

Trước khi đặt catheter tĩnh mạch ngoại vi, cần tiến hành thủ tục vệ sinh cẩn thận và sử dụng kỹ thuật đặt catheter chính xác để đảm bảo an toàn và hiệu quả. Việc chăm sóc và theo dõi catheter trong suốt quá trình sử dụng cũng rất quan trọng để tránh các vấn đề phát sinh như nhiễm trùng hoặc tắc nghẽn.
Catheter tĩnh mạch ngoại vi được đặt thông qua da và được đưa vào một tĩnh mạch ngoại vi trên cơ thể. Có nhiều vị trí có thể sử dụng để đặt catheter này, bao gồm tĩnh mạch đùi, tĩnh mạch cánh tay, tĩnh mạch chân, tĩnh mạch cổ tay, tĩnh mạch cổ tay hoặc tĩnh mạch đốt sống.

Quá trình đặt catheter thường được thực hiện bởi bác sĩ hoặc nhân viên y tế có kinh nghiệm. Quá trình bao gồm các bước sau:

1. Chuẩn bị: Vị trí cần đặt catheter sẽ được làm sạch và khử trùng. Việc giữ vùng cần đặt máu cũng được thực hiện để tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình đặt.

2. Gây tê cục bộ: Đôi khi, vùng cần đặt catheter sẽ được gây tê cục bộ bằng cách sử dụng thuốc tê như lidocaine. Điều này giúp làm giảm đau và cung cấp sự thoải mái cho bệnh nhân trong quá trình đặt catheter.

3. Đặt catheter: Bác sĩ hoặc nhân viên y tế sẽ sử dụng một kim đặt catheter để tiến vào tĩnh mạch từ vùng đã được chuẩn bị trước đó. Sau khi kim đã tiếp cận tĩnh mạch, catheter được đưa qua trong kim và kim sẽ được loại bỏ, để lại catheter trong tĩnh mạch.

4. Kiểm tra và cố định: Sau khi catheter được đưa vào, bác sĩ hoặc nhân viên y tế sẽ kiểm tra để đảm bảo rằng catheter đã được đặt chính xác và không có vấn đề gì. Sau đó, catheter sẽ được cố định bằng cách sử dụng băng dính hoặc các hệ thống cố định catheter như clamp hoặc mắt khoá.

5. Điều chỉnh và quản lý: Sau khi catheter đã được đặt, thuốc, chất dịch hoặc chất dinh dưỡng có thể được cung cấp thông qua catheter. Catheter thường được giữ trong tĩnh mạch trong khoảng thời gian ngắn hoặc dài tùy thuộc vào mục đích điều trị và tình trạng bệnh của bệnh nhân. Trong suốt thời gian sử dụng catheter, việc chăm sóc vệ sinh và theo dõi cẩn thận được thực hiện để đảm bảo an toàn và tránh nhiễm trùng.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "catheter tĩnh mạch ngoại vi":

Nghiên cứu nguy cơ viêm tĩnh mạch sau đặt catheter tĩnh mạch ngoại vi tại Bệnh viện hữu nghị Việt Đức
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐIỀU DƯỠNG - Tập 3 Số 4 - Trang 33-42 - 2020
Mục tiêu: Nhằm mục đích cung cấp thêm thông tin về thực trạng nguy cơ viêm tĩnh mạch sau đặt PVC để thực hiện các cải tiến, nâng cao chất lượng chăm sóc người bệnh tại bệnh viện, chúng tôi thực hiện nghiên cứu với mục tiêu xác định mức độnguy cơ và yếu tốliên quan đến viêm tĩnh mạch sau đặt catheter tĩnh mạch ngoại vi trên người bệnh điều trịtạibệnh viện Hữu nghịViệt Đức. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Theo dõi dọc, viêm tĩnh mạch được chẩn đoán và phân độ theo thang điểm VIP. Phân tích sống còn (Survival Analysis) được sử dụng để phân tích số liệu. Kết quả: Nguy cơ viêm tĩnh mạch sau đặt catheter tĩnh mạch ngoại vi là cao hơn khuyến cáo của INS, thời gian PVC sống sót không viêm tĩnh mạch độ2 (VIP2) trung bình là 3,9 ± 0,1 ngày (95% CI: 3,7 –4,1); phần lớn các PVC không có xuất hiện viêm tĩnh mạch trong 3 ngày đầu, trung bình thời gian để 75% PVC sống sót không có VIP 2 là 3,00± 0,154 ngày. Yếu tố nguy cơ độc lập liên quan đến VIP 2 là kích cỡ PVC, vị trí đặt PVC, thời gian lưu chạc ba kết nối và việc sử dụng KCl. Kết luận: Bệnh viện nên có các chính sách cải tiến liên quan đến viêm tĩnh mạch do PVC để nâng cao chất lượng chăm sóc người bệnh. Bệnh viện cần ban hành các quy định, hướng dẫn sử dụng PVC một cách tối ưu, phù hợp với bối cảnh và nguồn lực của bệnh viện. Ngoài ra, việc công bố và đo lường mức độ nguy cơ viêm tĩnh mạch cũng là một chỉ số để đánh giá chất lượng bệnh viện
#Viêm tĩnh mạch #catheter tĩnh mạch ngoại vi #bệnh viện Hữu nghịViệt Đức
Đặc điểm lâm sàng của các biến chứng liên quan đến catheter tĩnh mạch trung tâm được đặt từ ngoại vi ở bệnh nhân ung thư đang điều trị hóa chất: một nghiên cứu quan sát và triển khai Dịch bởi AI
BMC Cancer -
Tóm tắt Mục đích

Tỉ lệ biến chứng liên quan đến catheter tĩnh mạch trung tâm được đặt từ ngoại vi (PICC) cao hơn ở bệnh nhân ung thư so với bệnh nhân không mắc ung thư. Tuy nhiên, mô hình xảy ra biến chứng cụ thể theo thời gian vẫn chưa rõ ràng. Mục đích của nghiên cứu này là điều tra các đặc điểm lâm sàng của các biến chứng liên quan đến PICC ở bệnh nhân ung thư đang điều trị hóa chất.

Phương pháp

Nghiên cứu quan sát này được tiến hành tại một bệnh viện trực thuộc đại học ở miền Tây Trung Quốc. Các bệnh nhân ung thư đang được đặt PICC để điều trị chống ung thư đã được tuyển chọn và theo dõi cho đến tuần đầu tiên sau khi rút catheter. Mọi biến chứng, bao gồm thời gian xảy ra và kết quả, đều được ghi nhận. Quá trình xảy ra các biến chứng cụ thể liên quan đến PICC theo thời gian được xác định dựa trên phân tích đường cong Kaplan‒Meier.

Kết quả

Trong số 233 bệnh nhân được phân tích, gần một nửa (n = 112/233, 48.1%) mắc phải 150 biến chứng liên quan đến PICC. Biến chứng phổ biến nhất là huyết khối liên quan đến catheter có triệu chứng (CRT) (n = 37/233, 15.9%), tổn thương da do keo y tế (MARSI) (n = 27/233, 11.6%), và sự rời catheter (n = 17/233, 7.3%), chiếm 54.0% (n = 81/150, 54.0%) tổng số biến chứng. Theo phân tích đường cong Kaplan‒Meier, CRT có triệu chứng, đau, viêm tĩnh mạch, và chảy máu tại vị trí đặt catheter được phân loại là nhóm "khởi phát sớm" chủ yếu xảy ra trong tháng đầu tiên sau khi đặt. Biến chứng gãy catheter và nhiễm trùng huyết liên quan đến catheter được phân loại là nhóm "khởi phát muộn" xảy ra sau tháng thứ hai sau khi đặt. MARSI, sự rời catheter, tắc nghẹt, và nhiễm trùng tại vị trí đặt catheter được phân loại là nhóm "khởi phát dai dẳng" xảy ra liên tục trong toàn bộ thời gian tồn tại của catheter. Trong số 112 bệnh nhân có biến chứng liên quan đến PICC, 50 (44.6%) bệnh nhân đã phải rút catheter do biến chứng, và 62 (55.4%) bệnh nhân đã giữ được catheter cho đến khi hoàn tất điều trị thông qua các can thiệp thông thường. Lý do chính gây ra sự rút catheter không mong muốn là sự rời catheter (n = 12/233, 5.2%), CRT có triệu chứng (n = 10/233, 4.3%), và MARSI (n = 7/233, 3.0%), chiếm 58.0% (n = 29/50, 58.0%) tổng số trường hợp rút catheter không mong muốn. Thời gian tồn tại của catheter ở bệnh nhân có biến chứng dưới các can thiệp thành công (130.5 ± 32.1 ngày) và bệnh nhân không có biến chứng (138.2 ± 46.4 ngày) không có sự khác biệt đáng kể (t = 1.306, p = 0.194; kiểm tra log-rank = 2.610, p = 0.106).

Kết luận

Các biến chứng liên quan đến PICC khá phổ biến ở bệnh nhân ung thư đang điều trị hóa chất. Phân phối theo thời gian của các biến chứng liên quan đến PICC khác nhau, và nhân viên y tế nên phát triển các quy trình phòng ngừa theo từng thời điểm cụ thể. Bởi vì hơn một nửa bệnh nhân có biến chứng liên quan đến PICC có thể được quản lý với các can thiệp thông thường, PICC vẫn là ưu tiên cho các bệnh nhân ung thư đang điều trị hóa chất ngắn hạn. Nghiên cứu này đã được đăng ký vào ngày 02/08/2019 tại Đăng ký thử nghiệm lâm sàng Trung Quốc (số đăng ký: ChiCTR1900024890).

Viêm tĩnh mạch tại vị trí lưu kim luồn tĩnh mạch ngoại biên và một số yếu tố liên quan tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội
Nghiên cứu tiến cứu được thực hiện nhằm (1) mô tả tỷ lệ viêm tĩnh mạch tại vị trí lưu kim luồn tĩnh mạch ngoại biên và (2) phân tích một số yếu tố liên quan trên người bệnh nội trú tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội. 900 người bệnh với 1519 kim luồn tĩnh mạch ngoại biên được theo dõi và đánh giá thông qua thang điểm Visual Infusion Phlebitis (VIP). Kết quả có 462 kim luồn tĩnh mạch ngoại biên xuất hiện viêm tĩnh mạch (30,4%), phổ biến nhất là viêm độ 1 (21,3%) và độ 2 (8,5%); số ít có viêm độ 3 (0,6%); không phát hiện viêm độ 4 hoặc độ 5. Tỷ suất viêm tĩnh mạch được xác định là 134/1000 ngày điều trị. Một số yếu tố liên quan đến sự gia tăng tỷ lệ viêm tĩnh mạch gồm: tuổi cao ( ≥ 60), có bệnh lý nền mạn tính, thể trạng béo hoặc gầy, tiền sử uống rượu, kim luồn tĩnh mạch ngoại biên được đặt tại khoa cấp cứu, vị trí đặt ở cánh tay; bên cơ thể liệt, cỡ kim lớn (18G), sử dụng thiết bị kết nối. Nguy cơ tương đối phát sinh viêm tĩnh mạch khi kim luồn tĩnh mạch ngoại biên đặt tại cánh tay cao gấp 1,7 lần so với khuỷu tay.
#Viêm tĩnh mạch #kim luồn tĩnh mạch ngoại biên #VIP score
TRẢI NGHIỆM CỦA NGƯỜI BỆNH VỀ ĐẶT CATHETER TĨNH MẠCH NGOẠI VI TẠI KHOA PHẪU THUẬT CỘT SỐNG, BỆNH VIỆN HỮU NGHỊ VIỆT ĐỨC
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 521 Số 2 - 2022
Mục tiêu: Đánh giá trải nghiệm của NB trong quá trình đặt catheter TMNV tại khoa phẫu thuật cột sống (PTCS) bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang được thực hiện trên 400 NB nội trú điều trị tại khoa PTCS thông qua phiếu đánh giá trải nghiệm của NB về đặt catheter TMNV. Kết quả nghiên cứu: Trong số 400 đối tượng nghiên cứu, 122 NB (30,5%) có chẩn đoán chấn thương cột sống và 278 NB (69,5%) có bệnh lý về cột sống. Tổng số ngày nằm viện trung bình là 6,09 ± 2,34 ngày, số catheter trung bình là 3,07 ± 1,24. Trong 400 NB tham gia nghiên cứu, 125 NB (31,2%)  không biết lý do đặt TMNV,  343 NB chiếm 85,8% không được hỏi về vị trí đặt cathter mà họ mong muốn. 391 NB (97,8%) cảm thấy đau trong quá trình đặt catheter tĩnh mạch ngoại vi, với 18 NB (4,5%) cảm thấy rất đau. 145 NB còn cảm thấy lo lắng trong quá trình đặt catheter chiếm 36,3%, trong đó 10 NB (2,5%) cảm thấy rất lo lắng. Đa phần NB tại khoa PTCS đều được đặt catheter TMNV thành công với một lần đâm kim (338 NB chiếm 84,5%). Kết luận và khuyến nghị: Trải nghiệm đặt catheter TMNV của NB tại khoa PTCS cần được cải thiện do đa số NB còn chưa được cung cấp đầy đủ thông tin, cảm thấy đau, lo lắng và không hài lòng. NVYT cần thực hiện các biện pháp giảm đau, giảm khó chịu và tăng sự hài lòng của NB trong thời gian đặt catheter TMNV.
#trải nghiệm #người bệnh #catheter tĩnh mạch ngoại vi.
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ GIẢI PHÁP CAN THIỆP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐẶT, CHĂM SÓC CATHETER TĨNH MẠCH NGOẠI VI CỦA ĐIỀU DƯỠNG BỆNH VIỆN BỆNH NHIỆT ĐỚI TRUNG ƯƠNG NĂM 2023
Tạp chí Truyền nhiễm Việt Nam - Tập 1 Số 45 - Trang 96-105 - 2024
Mục tiêu: 1. Mô tả thực trạng đặt, chăm sóc catheter tĩnh mạch ngoại vi của điều dưỡng chăm sóc Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương. 2. Đánh giá hiệu quả giải pháp can thiệp trong đặt, chăm sóc catheter tĩnh mạch ngoại vi của điều dưỡng tại Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương năm 2023.Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu can thiệp trước sau, nghiên cứu trên 170 điều dưỡng, hộ sinh đã ký hợp đồng làm việc, trực tiếp chăm sóc người bệnh nội trú có thực hiện thủ thuật đặt, chăm sóc catheter tĩnh mạch ngoại vi tại các khoa lâm sàng Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương.Kết quả và kết luận: Qua khảo sát 170 điều dưỡng, hộ sinh trước và sau khi can thiệp đã chỉ ra thực trạng kỹ thuật đặt, chăm sóc catheter tĩnh mạch ngoại vi (TMNV), đồng thời đánh giá được hiệu quả của việc áp dụng can thiệp như: Quy trình đặt catheter TMNV: Điểm trung bình trước can thiệp 6,69 điểm, sau can, thiệp đạt: 8,38 điểm. Quy trình chăm sóc catheter TMNV trước can thiệp 7,75, sau can thiệp: 7,8 điểm. Đối với kỹ thuật đặt catheter TMNV tỷ lệ bàn giao catheter trước can thiệp đạt 11,8%, sau can thiệp bàn giao bằng công cụ SBAR theo hướng dẫn của chuyên gia đạt: 83,5%, đối với kỹ thuật chăm sóc catheter TMNV tỷ lệ bàn giao catheter trước can thiệp 7,1%, sau can thiệp đạt: 85,3%; Tình trạng viêm tĩnh mạch trước can thiệp 11,1%, sau can thiệp 2,9%.
#Đánh giá hiệu quả #can thiệp #catheter tĩnh mạch ngoại vi #điều dưỡng
Khảo sát tỷ lệ viêm tại chỗ và một số yếu tố liên quan sau đặt catheter tĩnh mạch ngoại vi tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 năm 2021
Mục tiêu: Khảo sát tỷ lệ viêm tại vị trí đặt catheter tĩnh mạch ngoại vi ở một số khoa lâm sàng và tìm hiểu một số yếu tố liên quan gây viêm tĩnh mạch sau đặt catheter. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang tiến cứu trên 389 người bệnh được đặt catheter tĩnh mạch ngoại vi và 389 catheter tĩnh mạch ngoại vi được quan sát tại 7 khoa từ tháng 4 đến tháng 6 năm 2021. Nghiên cứu sử dụng thang điểm INS phlebitis scale để đánh giá mức độ viêm và sử dụng phần mềm SPSS 20.0 để phân tích các yếu tố liên quan. Kết quả: Tỷ lệ viêm tĩnh mạch chung sau đặt catheter tĩnh mạch ngoại vi là 16,5% tính theo catheter tĩnh mạch ngoại vi. Kết quả phân tích chỉ ra 5 yếu tố liên quan với viêm tĩnh mạch ngoại vi: Khoa điều trị, bệnh mắc của người bệnh, loại catheter, vị trí lưu kim, thời gian lưu catheter. Kết luận: Tỷ lệ viêm tĩnh mạch ở người bệnh đặt catheter tĩnh mạch còn cao. Điều dưỡng cần lưu ý đến các yếu tố liên quan để hạn chế nguy cơ viêm tĩnh mạch.
#Viêm tĩnh mạch ngoại vi #catheter tĩnh mạch ngoại vi
TUÂN THỦ QUI TRÌNH ĐẶT VÀ CHĂM SÓC KIM LUỒN TĨNH MẠCH NGOẠI VI CỦA ĐIỀU DƯỠNG TẠI KHOA LÂM SÀNG CỦA BỆNH VIỆN ĐA KHOA TRUNG TÂM AN GIANG NĂM 2021
Tạp chí Y học Cộng đồng - Tập 63 Số 2 - 2022
Đặt vấn đề: Tuân thủ tiêm truyền tĩnh mạch (TTTM) sử dụng kim luồn qua tĩnh mạch ngoại vi (KLTMNV) là một vấn đề cần khắc phục tại các cơ sở y tế. Nghiên cứu nhằm tìm hiểu thực trạng tuân thủ của điều dưỡng về qui trình đặt và chăm sóc KLTMNV tại Bệnh viện đa khoa (BVĐK) trung tâm An Giang. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang thông qua điều tra định lượng trong 2 tháng (04-06/2021) tại BVĐKTT An Giang. Số liệu định lượng thu thập dựa trên quan sát trực tiếp 152 điều dưỡng thực hiện quy trình đặt và quy trình chăm sóc KLTMNV với bảng kiểm gồm 13 bước đặt và 15 bước chăm sóc KLTMNV. Số liệu định lượng được phân tích bằng phần mềm SPSS phiên bản 25.0. Kết quả: Tỷ lệ tuân thủ đúng quy trình đặt KLTMNV của ĐD là 54,0%, trong đó cao nhất là ĐD của Khoa Nội tổng hợp 76% và thấp nhất là Khoa Cấp cứu và Khoa Hồi sức tích cực chỉ đạt khoảng 42%. Về chăm sóc KLTMNV, tỷ lệ tuân thủ đúng quy trình chăm sóc KLTMNV chung của ĐD đạt là 68,4%. Trong đó cao nhất tại Khoa Nội tổng hợp với tỷ lệ là 79,6%; Khoa Cấp cứu 66,7% và Khoa Hồi sức tích cực chỉ đạt 58,0%. Kết luận: BVĐKTT An Giang cần đẩy mạnh công tác truyền thông, đào tạo, tập huấn và giám sát để điều dưỡng thực hiện đúng các bước chuẩn bị cá nhân trong đó cần đặc biệt thực hiện đúng việc đội mũ và sát khuẩn tay nhanh, trong đó tập trung vào các bước còn thực hiện chưa tốt của qui trình đặt và chăm sóc KLTMNV.
#Tiêm truyền tĩnh mạch #quy trình đặt và chăm sóc kim luồn qua tĩnh mạch ngoại vi #điều dưỡng #Bệnh viện đa khoa trung tâm An Giang.
Tổng số: 7   
  • 1